Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan cần phải thực hiện để đi lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước đang phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, đó là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và gian nan, vì vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tăng cường sự lãnh đạo.
Theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương, định hướng công nghiệp hóa[1]; lãnh đạo đội ngũ cán bộ, công nhân để quyết tâm hoàn thành tốt kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội[2], tuyền truyền, giáo dục, thuyết phục để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ vị trí, vai trò quan trọng của mình trong CNH XHCN, cán bộ phải gương mẫu thực hiện[3], thiết thực tổ chức bộ máy sản xuất mới, tích cực học tập quản lý kinh tế, cải tiến kỹ thuật[4], lãnh đạo tổ chức phong trào thi đua… Luận điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hoá của tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa rõ ràng là hình mẫu về sự kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam trong chặng đường đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, sự kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo luận điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hoá của tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã mang lại những thành tựu to lớn không thể phủ nhận đối với xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những chỉ dẫn của Bác ngày nay vẫn có giá trị vô cùng to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng với những định hướng giải pháp cụ thể.
1. Nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045
(1) Trong bối cảnh mới, khi đất nước đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm mà Đảng cần sáng suốt lãnh đạo dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó, kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong lãnh đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo thực hiện nhiệm vụ quan trọng nhất – xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phù hợp với bối cảnh lịch sử mới, đưa đất nước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến, từ đó, nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, đến 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp vẻ vang nhưng vô cùng khó khăn phức tạp, để thực hiện thành công rất cần phải đảm bảo sự lãnh đạo sáng suốt, vững vàng và kiên quyết của Đảng với đường lối, phương thức đúng đắn, phát huy tối đa vai trò của các chủ thể trong nền kinh tế cũng như các nguồn lực, động lực, từ đó cần phải tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giai đoạn 2026 – 2030 cần thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế. Giai đoạn 2031 – 2045, tập trung nâng cao chất lượng công nghiệp hoá và đẩy mạnh hiện đại hoá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội. Trên cơ sở đó cần tiếp tục tập trung nghiên cứu:
Một là, làm rõ mối quan hệ giữa tính quy luật chung và tính đặc thù của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh mới với tác động ngày càng mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để vận dụng vào bổ sung, phát triển căn cứ khoa học cụ thể hóa đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu cập nhật căn cứ khoa học, cụ thể hóa trọng tâm ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, xác định rõ hơn hệ thống chủ thể tham gia thực hiện với vị trí, vai trò cụ thể trong bối cảnh mới. Việc lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đã lựa chọn phải gắn với phát triển một số ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp đặc thù thông qua tiếp tục hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể công nghiệp Việt Nam và phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp nền tảng; ưu tiên phát triển một số ngành có mức độ sẵn sàng cao[5]; phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ[6]. Bên cạnh đó cần tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao; phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, đạt tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm… Để thực hiện hiệu quả việc phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp mũi nhọn đã lựa chọn, cần xác định rõ hơn hệ thống chủ thể tham gia thực hiện với vị trí, vai trò cụ thể trong giai đoạn tới để có chính sách phù hợp, đặc biệt là kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân của người Việt Nam.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian tới, đặc biệt là chú trọng việc lãnh đạo đội ngũ cán bộ của Đảng và hệ thống chính trị để quyết tâm hoàn thành tốt Chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội với tinh thần cố gắng cao.
(2) Tổ chức quán triệt, tuyên truyền sâu rộng quan điểm, chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong kỷ nguyên mới để thống nhất và nâng cao nhận thức toàn Đảng, toàn dân về thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong kỷ nguyên mới. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; nhiệm vụ Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với các yêu cầu nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
2. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các đột phá chiến lược, tạo thuận lợi cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn tới
(1) Tăng cường đẩy mạnh công tác cụ thể hóa và thể chế hóa đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng trong kỷ nguyên mới. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo luận điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hoá của tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc thời gian tới phải bám sát diễn biến của bối cảnh quốc tế, song trọng tâm là tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc nói chung. Từ đó cần tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện thể chế, xác định rõ đây là khâu “đột phá của đột phá”. Chủ động rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, đảm bảo thống nhất, đồng bộ, tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, nhanh chóng đưa chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Rà soát các quy định pháp luật có liên quan để chủ động chuẩn bị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo đúng quy định, bảo đảm chủ trương của Đảng được triển khai nhanh nhất, hiệu quả nhất sau khi Trung ương thông qua.
Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, thực hiện đồng bộ việc tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, có biên chế hợp lý. Thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm[7] trong phát biểu khai mạc tại kỳ họp Quốc hội về đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Trung ương, Quốc hội, Chính phủ tập trung hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo, tăng cường kiểm tra, giám sát, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; xóa bỏ cơ chế “xin – cho”; cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí theo hướng “vừa quản lý chặt chẽ, vừa kiến tạo phát triển, huy động tối đa các nguồn lực, tạo không gian phát triển mới”, vướng mắc ở cấp nào thì cấp đó tháo gỡ”, tạo thuận lợi tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số để tạo môi trường làm việc, sản xuất, kinh doanh lành mạnh, dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch. Hoàn thiện thể chế, chính sách đào tạo nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là cơ chế đặc thù chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu phát triển[8]. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm. Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tạo khuôn khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá phát triển đất nước trong những năm tiếp theo.
(2) Đối với đột phá về phát triển nguồn nhân lực: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với thực hành; chú trọng đào tạo, cung ứng nhân lực cho những ngành mũi nhọn, ngành mới tạo đột phá cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững (kinh tế số, kinh tế xanh, ngành bán dẫn, hydrogen, năng lượng tái tạo,…); nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đột phá phát triển giáo dục nghề nghiệp để có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có tay nghề cao và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động và yêu cầu công việc do quá trình chuyển đổi số mang lại. Tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghiên cứu, ban hành và thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài, tạo cơ hội cho nhân tài (người Việt Nam cả trong nước và nước ngoài) cống hiến, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo. Phát triển mạnh mẽ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phục vụ phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
(3) Đối với đột phá về kết cấu hạ tầng: Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, quy mô lớn, nhất là về giao thông, năng lượng và hạ tầng số để khắc phục những điểm nghẽn cho phát triển, tăng cường kết nối nội vùng, liên vùng, kết nối với khu vực và thế giới phục vụ phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Rà soát, sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là các chính sách, pháp luật về đầu tư công, quy hoạch, đối tác công – tư, ngân sách nhà nước. Ưu tiên đầu tư vốn vào các công trình, dự án hạ tầng có sức lan tỏa, tạo động lực cho phát triển kinh tế, nhất là hạ tầng vùng động lực tăng trưởng, hạ tầng thúc đẩy liên kết vùng, liên kết ngành, hạ tầng kinh tế số, hạ tầng dữ liệu,… Phát triển hạ tầng năng lượng đáp ứng yêu cầu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao cho phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển hạ tầng cấp điện đảm bảo chất lượng, an toàn, phục vụ nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt.
Đẩy mạnh phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông đồng bộ, hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ số tiên tiến, có khả năng cung cấp các dịch vụ thông tin và truyền thông tin cậy, bảo đảm an toàn thông tin mạng; đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Hoàn thiện các nền tảng có quy mô quốc gia để vận hành thông suốt đáp ứng được yêu cầu chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Tập trung xây dựng hạ tầng số với công nghệ tiên tiến, hiện đại; phát triển đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia, các cơ sở dữ liệu lớn, trung tâm dữ liệu lớn, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin. Nghiên cứu tổ chức thí điểm mô hình đầu tư công – quản trị tư, đầu tư tư – sử dụng công; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Hoàn thiện cơ chế hợp tác công tư để phát triển hạ tầng số hiện đại, trong đó nguồn lực nhà nước là chủ yếu. Phát triển hạ tầng viễn thông, Internet đáp ứng yêu cầu dự phòng, kết nối, an toàn, bền vững, hệ thống truyền dẫn dữ liệu qua vệ tinh, mạng cáp quang băng thông rộng tốc độ cao phủ sóng toàn quốc, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp theo. Phát triển hạ tầng vật lý số, hạ tầng tiện ích số; tích hợp cảm biến, ứng dụng công nghệ số vào hạ tầng thiết yếu. Phát triển ngành công nghiệp IoT, xây dựng một số cụm công nghiệp IoT di động. Hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đầu tư, xây dựng trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây; thu hút doanh nghiệp nước ngoài đặt trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây tại Việt Nam. Hình thành hạ tầng lưu trữ, tính toán đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn xanh. Sớm hoàn thành và phát huy hiệu quả Trung tâm dữ liệu quốc gia; đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu vùng. Xây dựng, phát huy hiệu quả dữ liệu quốc gia, dữ liệu của bộ, ngành, địa phương bảo đảm liên thông, tích hợp, chia sẻ. Có cơ chế, chính sách bảo đảm dữ liệu thành nguồn tài nguyên tư liệu sản xuất quan trọng. Xác lập quyền sở hữu, kinh doanh dữ liệu và phân phối giá trị tạo ra từ dữ liệu. Phát triển kinh tế dữ liệu, thị trường dữ liệu và các sàn giao dịch dữ liệu. Xây dựng các cơ sở dữ liệu lớn có chủ quyền của Việt Nam. Hình thành ngành công nghiệp dữ liệu lớn của Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng.
3. Quyết liệt trong lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng trong kỷ nguyên mới
Tập trung thực hiện các giải pháp quyết liệt để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hóa hiện đại hóa, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trước hết, cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với phát triển kinh tế – xã hội, cũng như thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa trong kỷ nguyên mới; bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc nhưng không bao biện hay buông lỏng. Các cấp ủy đảng phải thể hiện vai trò lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị, kết hợp với tinh thần tiên phong, gương mẫu và tự phê bình, phê bình của mỗi cán bộ, đảng viên. Đồng thời, kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công nghiệp hóa hiện đại hóa thành pháp luật, tạo nền tảng pháp lý cho việc thực hiện chính sách. Công tác vận động, thuyết phục nhân dân phải được tăng cường, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và xây dựng Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”.
Kiểm tra, giám sát cần được thực hiện nghiêm túc, kịp thời phát hiện những sơ hở và ngăn chặn các vi phạm trong thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, giữ gìn sự trong sạch của Đảng. Chính phủ cần phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong quản lý vĩ mô, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược và quy hoạch, đi đôi với kiểm tra, giám sát hiệu quả. Một nền hành chính phục vụ nhân dân cần được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch và trong sạch. Thực hiện nghiêm túc các kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, kiên quyết ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, và các biểu hiện “tự diễn biến, ” “tự chuyển hóa.” Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời duy trì và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức của Đảng. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cần được thực hiện mạnh mẽ, không ngừng nghỉ. Tiến hành điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ án tham nhũng, tiêu cực, đồng thời tăng cường thu hồi tài sản thất thoát, minh bạch hóa hoạt động công vụ và kiểm soát tài sản của cán bộ, đảng viên.
[1] Xem: Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb CTQGST., H., Tập 13, tr.572.
[2] Xem: Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb CTQGST., H., Tập 13, tr.163-164
[3] Xem: Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb CTQGST., H., Tập 13, tr.20
[4] Xem: Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb CTQGST., H., Tập 13, tr.69
[5] Công nghiệp dệt may, da giày, chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghệ thông tin, điện tử – viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính – ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo.
[6] Trí tuệ nhân tạo, sản xuất robot, công nghiệp ô tô, công nghệ sinh học, điện tử y sinh, sản xuất phần mềm, sản phẩm số, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.
[7] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm
[8] Phát biểu Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm Tại Hội nghị quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; tình hình kinh tế-xã hội năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 và tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế (ngày 01 tháng 12 năm 2024)