Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người được hình thành trên cơ sở kế thừa chủ nghĩa nhân văn trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam; mang ý nghĩa định hướng cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Trong bối cảnh mới, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người theo cách thức phù hợp, khoa học, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người được hình thành và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ: 1- Chủ nghĩa nhân văn trong truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam, nơi mà các giá trị nhân đạo, tình thương, công bằng và bình đẳng được coi trọng. Đặc biệt là tư tưởng về tự do, độc lập đã được thể hiện đậm nét qua lịch sử đấu tranh chống áp bức và xâm lược của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, qua quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy rằng quyền con người không chỉ là vấn đề của từng cá nhân, mà còn gắn liền với quyền tự do, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia dân tộc. Người đã nhận thức sâu sắc rằng chỉ khi một dân tộc giành được độc lập, người dân mới thực sự có được các quyền cơ bản; 2- Triết lý và tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về giải phóng con người và xã hội không có áp bức, bóc lột; 3- Các giá trị tư tưởng tiến bộ của nhân loại: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu giá trị phổ quát về quyền con người từ các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, đặc biệt là từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, các tư tưởng tiến bộ khác của nhân loại và Người đã vận dụng một cách sáng tạo giá trị phổ quát này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; 4- Kinh nghiệm sống và hoạt động thực tiễn: Trong quá trình bôn ba ở nhiều quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng kiến sự bất công và mất tự do của nhiều dân tộc, đặc biệt là nhân dân Việt Nam. Trải nghiệm thực tế này đã củng cố tư tưởng của Người về sự cần thiết của việc giải phóng nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới khỏi áp bức, bất công, đấu tranh cho sự bình đẳng và công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người mang đậm tính nhân văn, phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của dân tộc Việt Nam trong quá trình đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước, có giá trị thời đại và vượt thời đại.
Kể từ khi thành lập, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm “kim chỉ nam” cho mọi hành động, phải được nắm vững, vận dụng sáng tạo trong thực tiễn nhằm “góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”(1). Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giải phóng con người, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, về quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân…, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo nguyên tắc quyền độc lập, tự do, hạnh phúc trên cơ sở gắn kết truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, như tư tưởng của lãnh tụ V. I. Lê-nin về quyền dân tộc tự quyết dưới mô hình chủ nghĩa xã hội thời Xô-viết; giá trị tự do, bình đẳng, bác ái của Cách mạng tư sản Pháp (năm 1789); học thuyết “Tam dân” (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của nhà yêu nước Trung Quốc Tôn Trung Sơn; giá trị phổ quát về quyền con người từ góc độ pháp luật và thông lệ quốc tế,…, vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Trong đó, nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho mọi người trên đất nước Việt Nam, rằng “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(2). Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta mang bản chất xã hội hiện thực do con người, vì con người; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc; kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, tập thể với lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ; có trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất, thể hiện khát vọng của nhân loại nói chung, dân tộc và nhân dân Việt Nam nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”(3), “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4), bởi vì trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức”(5). Trên tinh thần đó, Người dành nhiều tâm huyết chuẩn bị toàn diện, đầy đủ cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp, tiến bộ, văn minh, nơi mà ở đó nhân dân ta thực sự được giải phóng toàn diện và có điều kiện để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần. Bởi theo Người: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(6) và “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(7).
Thứ hai, bản chất cốt lõi của quyền con người luôn gắn với “độc lập – tự do – hạnh phúc”, gắn với quyền dân tộc, giai cấp, bởi vì để giành được quyền con người “là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”(8). Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi đất nước bị mất chủ quyền thì quyền con người bị chà đạp nghiêm trọng, cụ thể trong thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác trơ tráo đến thế”(9); điều kiện tiên quyết để quyền con người được bảo đảm là dân tộc phải có tự do, độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Thật vậy, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, nhân dân ta mới thoát khỏi thân phận nô lệ, được hưởng thụ giá trị của độc lập, tự do; từ đây, các quyền công dân lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Đất nước phát triển hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” – biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của quyền con người, của sự bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Thứ ba, “dân chủ” là yếu tố cơ bản trong xác lập và bảo vệ quyền con người, thể hiện ở quyền là chủ gắn với quyền làm chủ, bởi “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”(10). Như vậy, nhân dân là chủ thể đích thực của chế độ, nắm chính quyền, bầu đại biểu thay mặt mình điều hành chính quyền ấy và nếu “Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(11). Có thể nói, “dân chủ” là nền tảng để xây dựng hệ thống pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, gắn với lợi ích cộng đồng và lợi ích quốc gia – dân tộc.
Thứ tư, quyền con người phải được bảo đảm ở tất cả giai cấp, tầng lớp xã hội, từ nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số,… trên tinh thần “Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”(12). Bên cạnh đó, quyền con người được thể hiện trên tất cả lĩnh vực, như chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội, mọi người đều bình đẳng, nam nữ bình quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau”(13). Điều này được thể hiện ở việc mọi công dân đều được tham gia chính quyền, được quyền bầu cử; tự do ngôn luận, xuất bản, tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng và cư trú, đi lại trong nước, nước ngoài; đồng thời, các nhóm yếu thế trong xã hội luôn được hỗ trợ, bảo vệ theo nguyên tắc phân phối công bằng “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(14).
Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tập trung hoàn thành trách nhiệm ở vị trí “công bộc”, “đày tớ” phục vụ tối đa việc bảo đảm quyền lợi cho nhân dân. Mặt khác, khẳng định sâu sắc hơn quan điểm quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân, rằng “Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân”(15). Sách trắng “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam” cũng nhấn mạnh: “các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội”(16). Ngoài ra, theo Người, cần xác định quyền lợi của dân tộc Việt Nam được bảo đảm trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của các dân tộc khác.
Thực tiễn vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Thành tựu
Giai đoạn trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên một số quy định trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về quyền con người chưa phát huy hết hiệu quả. Kể từ sau năm 1986, thành tựu về bảo vệ, bảo đảm quyền con người của Việt Nam ngày càng được thế giới nhìn nhận, đánh giá cao… Thêm vào đó, Việt Nam đã và đang tiếp tục xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân với chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo đảm các quyền con người được lồng ghép vào mọi chiến lược, chương trình phát triển của đất nước, góp phần giúp người dân có cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cùng với đó, Việt Nam đã tham gia hầu hết điều ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền con người, như Công ước về các quyền dân sự, chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; là thành viên tích cực trong các diễn đàn, hội nghị khu vực và quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền,…; qua đó, thể hiện vị thế, uy tín quốc tế nước ta ngày càng cao, bác bỏ các luận điệu phủ nhận, xuyên tạc, chống phá từ các thế lực thù địch về thành tựu bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Mặt khác, hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền con người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, dân sự, xã hội và văn hóa thể chế hóa kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên tinh thần “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”(17).
Như vậy, dựa trên việc kế thừa, phát huy kết quả công tác bảo vệ, thực hiện quyền công dân, quyền con người qua các giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền lợi của mọi giai tầng xã hội, từ nhi đồng, thiếu niên, đến thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo, người khuyết tật,… Cùng với đó, các giá trị độc lập – tự do – hạnh phúc cho mỗi người và mỗi dân tộc được bảo vệ; giải quyết đúng đắn, phù hợp mối quan hệ hai chiều giữa tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền bình đẳng, tương trợ, đoàn kết của mọi người và của các cộng đồng lớn nhỏ (giới, dân tộc, tôn giáo,…) hướng tới nhiệm vụ phát huy “tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”(18).
Một số hạn chế
Một là, quá trình hoàn thiện và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong công tác bảo vệ quyền con người còn một số hạn chế: “(i) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; (ii) hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. (iii) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân”(19). Một số cán bộ, công chức và người dân nhận thức chưa đầy đủ về quyền con người; về quyền luôn đi đôi với nghĩa vụ; thể chế về nghĩa vụ công dân chưa hoàn thiện; chưa bảo đảm tốt việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền lợi về môi trường, quyền sử dụng đất đai, và quyền của các nhóm yếu thế; thiếu cơ chế giám sát độc lập và hiệu quả việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong công tác bảo vệ quyền con người; người dân chưa có nhiều cơ hội để tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách liên quan đến quyền con người.
Hai là, thách thức từ việc nhận thức chưa đầy đủ, thực hiện chưa thật sự hiệu quả cách tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định, triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Chủ thể trao quyền thực hiện chưa nghiêm trách nhiệm giải trình, đạo đức công vụ, suy thoái đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực dẫn đến hạn chế quyền con người của người dân.
Ba là, thiếu cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương với địa phương trong giải quyết hài hòa, hợp lý một số vấn đề về quyền con người.
Bốn là, việc sử dụng phương tiện truyền thông chính thống để thông tin, tuyên truyền đối ngoại thông qua các kênh khác nhau, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài, trong nhận diện, phản bác thông tin xấu độc, các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch về thành tựu bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam chưa thật sự kịp thời, hiệu quả chưa cao. Có lúc chưa thật sự chủ động, tích cực tiếp cận và giải quyết để hạn chế âm mưu, thủ đoạn “chính trị hóa” vấn đề quyền con người của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, cũng như “chính sách ngoại giao nhân quyền” theo kiểu phương Tây.
Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người
Bối cảnh mới của Việt Nam hiện nay có thể được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh, từ chính trị, kinh tế, xã hội, quan hệ quốc tế. Đây là thời kỳ Việt Nam đang đối mặt với nhiều cơ hội, thách thức lớn, khi tiếp tục quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: “… đó là kỷ nguyên phát triển,… Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu”(20).
Một là, chuyển đổi kinh tế và hội nhập quốc tế: Việt Nam đã trải qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm, thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, và cải thiện đời sống nhân dân. Vị thế quốc gia ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đặc biệt là trong các vấn đề kinh tế và thương mại khu vực. Tuy nhiên, cạnh tranh trong khu vực và toàn cầu ngày càng gia tăng, đặt ra thách thức về việc làm cho bộ phận người lao động chưa đươc đào tạo nghề theo tiêu chuẩn quốc tế.
Hai là, chính trị Việt Nam ổn định, nhưng đối mặt với yêu cầu mới: Sự ổn định về chính trị là yếu tố quan trọng giúp bảo đảm sự phát triển liên tục của nền kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ trong quyết sách chính trị và phát triển đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đối diện với thách thức lớn về yêu cầu hoàn thiện cơ chế để đổi mới công tác quản lý, cải cách hành chính, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, về triển khai hiệu quả chủ trương, chính sách, pháp luật về quyền con người, đặc biệt là áp lực từ việc bảo vệ chủ quyền quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh địa – chính trị ngày càng gay gắt.
Ba là, văn hóa đa dạng, phong phú, nhưng còn nhiều thách thức: Việt Nam có 54 dân tộc anh em và nhiều tôn giáo khác nhau, tạo nên sự phong phú về văn hóa, quyền giữ gìn, tiếp cận và hưởng thụ văn hóa, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, đất nước vẫn đối mặt với một số vấn đề xã hội, như chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội, và sự phân hóa giữa các vùng, miền.
Bốn là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số mở ra cơ hội phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam, từ các ngành sản xuất đến dịch vụ. Tuy nhiên, chất lượng của nguồn nhân lực cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể sẽ là thách thức, rào cản trong tiếp cận việc làm; việc bảo mật thông tin, quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng là thách thức khi điều này ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh hội nhập.
Năm là, quan hệ quốc tế và vị thế toàn cầu hóa: Mối quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với nhiều quốc gia lớn, như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ,.. và các quốc gia trong ASEAN giúp Việt Nam phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia; tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) và tích cực trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế về các vấn đề toàn cầu, như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, và phòng, chống dịch bệnh. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra thách thức về bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, đồng thời đặt ra yêu cầu có phương thức ứng xử linh hoạt, khéo léo về các vấn đề đối ngoại và các mối quan hệ quốc tế phức tạp.
Sáu là, vấn đề môi trường và phát triển bền vững: Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ các sáng kiến toàn cầu về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh do cộng đồng quốc tế đang chú trọng đến việc phát triển xanh, sử dụng năng lượng tái tạo và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với thách thức lớn về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và thiên tai là các vấn đề đang ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân; thách thức về bảo đảm quyền con người trong tình trạng khẩn cấp do hậu quả thiên tai từ biến đổi khí hậu: quyền an toàn tính mạng, sức khỏe, quyền có mức sống thỏa đáng, quyền được sống trong môi trường trong lành.
Nhiệm vụ, giải pháp vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong bối cảnh mới
Một là, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người để bảo đảm tốt nhất quyền con người cho mọi người dân Việt Nam đòi hỏi tiếp tục thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người(21); xác định quyền con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên tinh thần chung “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(22). Nhiệm vụ này không chỉ đòi hỏi sự lãnh đạo, quản lý đúng đắn từ phía Đảng và Nhà nước, mà còn cần sự tham gia tích cực từ toàn thể nhân dân.
Quyền con người cần được bảo đảm thông qua thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể: 1- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các cơ quan nhà nước phải tuân thủ pháp luật, đồng thời cũng phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Điều này đòi hỏi một hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng và hiệu quả; 2- Các tỉnh, thành phố, ban, bộ, ngành chủ động đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý trên cơ sở vận dụng, coi trọng việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục các vấn đề về quyền con người gắn với dân chủ; thực hiện tốt công tác thông tin – báo chí, tư pháp, tôn giáo, dân tộc thiểu số; 3- Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thường xuyên giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong giải quyết hài hòa, hợp lý các vấn đề về quyền con người. Chỉ có như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội mới thực sự được vận dụng sáng tạo và hiệu quả, đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người, góp phần xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, công bằng và hạnh phúc.
Hai là, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong tình hình hiện nay đòi hỏi thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ và giải pháp như sau: 1- Bảo vệ, củng cố nền độc lập. Độc lập dân tộc là nền tảng cơ bản để bảo đảm quyền con người. Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ và củng cố nền độc lập của Tổ quốc trước mọi thách thức từ bên ngoài. Đẩy mạnh quốc phòng, an ninh; tăng cường đoàn kết dân tộc và nâng cao tinh thần yêu nước. Đồng thời, cần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để tạo ra cơ sở vững chắc cho việc bảo đảm quyền con người; 2- Kết hợp chặt chẽ giữa quyền con người và quyền dân tộc, quyền giai cấp. Bảo đảm quyền con người không tách rời khỏi quyền dân tộc và bản chất giai cấp. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh. Đồng thời, tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; 3- Gìn giữ giá trị phổ quát về quyền con người trên cơ sở bảo vệ chủ quyền quốc gia gắn với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội. Tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối thoại về quyền con người; nâng cao chất lượng, hiệu quả phương tiện truyền thông chính thống trong nhận diện, phản bác thông tin xấu độc, các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch về thành tựu bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam; tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại thông qua các kênh khác nhau, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt, trong quan hệ đối nội, đối ngoại, phải chủ động, tích cực tiếp cận và giải quyết vấn đề nhân quyền để ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn “chính trị hóa” của các thế lực phản động, thù địch bôi nhọ, xuyên tạc thành tựu về bảo vệ quyền con người của Việt Nam, cũng như phản bác việc áp đặt “chính sách ngoại giao nhân quyền” theo kiểu phương Tây.
Ba là, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân chủ”, dân là chủ gắn với quyền làm chủ của nhân dân đòi hỏi: 1– Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nơi mà pháp luật là công cụ bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Pháp luật phải thực sự là tiếng nói và công cụ để nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình; 2- Mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình ra quyết định của Nhà nước thông qua các cơ chế dân chủ trực tiếp và gián tiếp. Tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể quần chúng trong việc phản biện xã hội, giám sát và đóng góp ý kiến cho việc hoạch định và thực thi chính sách của Nhà nước; 3- Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước; 4- Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm quyền làm chủ của người lao động và nhân dân, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào hoạt động kinh tế – xã hội; 5- Tạo điều kiện để truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm thông tin được truyền tải một cách trung thực, công bằng và kịp thời đến nhân dân; góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nơi mà mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện để phát triển toàn diện.
Bốn là, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người phải gắn với tất cả giai cấp, tầng lớp xã hội và trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, dân sự, xã hội và văn hóa, quyền của nhóm dễ bị tổn thương, cụ thể: 1- Bảo đảm quyền con người cho tất cả giai cấp và tầng lớp xã hội, từ người lao động, nông dân, đến tầng lớp trí thức, doanh nhân, và các nhóm yếu thế khác; 2- Hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm quyền con người cho mọi giai tầng xã hội. Pháp luật phải được thực hiện một cách công bằng, không thiên vị bất kỳ giai cấp hay tầng lớp nào, không để ai ở lại phía sau. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân vừa bảo đảm phù hợp với cam kết quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam; giải quyết hiệu quả lợi ích trong quan hệ giữa các dân tộc trước tác động của quá trình phân hóa giàu nghèo, bùng nổ dân số,…; 3- Sử dụng phổ biến, sâu rộng cách tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định, triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Đảng và Nhà nước chuyển từ việc quyết định và trao quyền cho người dân sang bảo đảm người dân được thụ hưởng quyền của mình; tạo điều kiện, khuyến khích ngày càng nhiều người dân tham gia tích cực, chủ động vào hoạch định, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, xã hội…; cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thực hiện nghiêm trách nhiệm giải trình, đạo đức công vụ; đề cao vai trò chủ thể hưởng thụ quyền là nhân dân; 4- Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm quyền con người cho mọi tầng lớp xã hội. Điều này bao gồm việc nâng cao mức sống, bảo đảm an sinh xã hội, và tạo cơ hội phát triển cho tất cả tầng lớp trong xã hội. Thực hiện chương trình phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa bảo đảm tôn trọng quy luật thị trường, vừa phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tạo điều kiện cho người dân ở khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn có thể phát triển kinh tế và hưởng thụ dịch vụ xã hội cơ bản.
Năm là, cơ quan nhà nước tập trung hoàn thành trách nhiệm ở vị trí “công bộc”, “đày tớ”, phục vụ tối đa việc bảo đảm quyền lợi cho nhân dân: 1- Đề cao vai trò của nhân dân: Cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Chính sách, quyết định phải xuất phát từ lợi ích của người dân, tránh tình trạng quan liêu, xa rời quần chúng; 2- Cải cách hành chính và nâng cao chất lượng phục vụ: Để làm tốt vai trò “công bộc”, các cơ quan nhà nước cần cải tiến quy trình làm việc, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân; 3- Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực: Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là trở ngại lớn trong việc thực hiện vai trò phục vụ của cơ quan nhà nước. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục quyết liệt, kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong công tác phòng, chống tham nhũng, tạo ra một bộ máy trong sạch, vững mạnh để phục vụ nhân dân tốt hơn; 4- Nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân, không ngừng học tập và rèn luyện để hoàn thành tốt nhiệm vụ; 5- Đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý: Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới: “i) Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. (ii) Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước”(23); phát huy tối đa trí tuệ tập thể, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước tập trung hoàn thành các mục tiêu phát triển toàn diện con người, đặt vị trí, quyền lợi của người dân làm trung tâm trên cơ sở nhất quán lấy hiệu quả kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội làm tiền đề để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Cần nhận thức sâu sắc để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, bảo đảm quyền gắn liền với nghĩa vụ; chú trọng từng bước bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền thông qua thể chế dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là: 1- Đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, nghiên cứu về quyền con người, đa dạng hóa hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của nước ta về quyền con người trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục quyền con người để nâng cao nhận thức của mọi người về mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa tự do cá nhân và trách nhiệm công dân; 2- Xây dựng văn hóa pháp luật: Phát triển và củng cố một nền văn hóa pháp luật, trong đó mọi cá nhân đều nhận thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; 3- Cần hoàn thiện cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời bảo đảm mọi cá nhân đều thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với xã hội, quy định rõ ràng nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong các lĩnh vực khác nhau; 4- Khuyến khích và tạo điều kiện cho công dân tham gia vào hoạt động chính trị, xã hội, qua đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; 5- Thực hiện biện pháp giám sát và kiểm tra nhằm bảo đảm mọi cá nhân đều thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình, đồng thời xử lý nghiêm vi phạm; 6- Tăng cường sự tham gia của tổ chức xã hội trong việc giáo dục và giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh ./.
————
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 401
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XII
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 294
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 175, 64
(8) Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư, “Về công tác quyền con người trong tình hình mới”
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 406
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 75
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 371 – 372
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 260
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 404
(15) Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư, “Về vấn đề quyền con người”
(16) Bộ Ngoại giao: Sách trắng: Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam, Hà Nội, 2005, tr. 5
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 167
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 47
(19)Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 6
(20) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 3
(21) Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư, “Về vấn đề quyền con người”; Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư, “Về công tác nhân quyền trong tình hình mới”; Quyết định số 1079/QĐ-TTg, ngày 14-9-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam”; Chỉ thị số 12/CT/TW của Ban Bí thư Trung ương; Chỉ thị số 41/CT-TTg, ngày 2-12-2004, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”,…
(22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 177
(23) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd; tr. 5
tapchicongsan.org.vn)